Ăn bổ sung hợp lý

Cập nhật: 11/27/2014 - Lượt xem: 31018
1. ĐỊNH NGHĨA ĂN BỔ SUNG

Ăn bổ sung nghĩa là cho ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ. Các thức ăn và chất lỏng thêm này được gọi là thức ăn bổ sung vì chúng bổ sung cho sữa mẹ, chứ không hoàn toàn thay thế được sữa mẹ để cung cấp đủ chất dinh dưỡng. Thức ăn bổ sung phải là các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và đủ về mặt số lượng để trẻ có thể tiếp tục phát triển.

2. ĐỘ TUỔI THÍCH HỢP BẮT ĐẦU CHO TRẺ ĂN THỨC ĂN BỔ SUNG

Từ khi tròn 6 tháng tuổi (180 ngày sau sinh), tốc độ tăng trưởng của trẻ tăng lên nhiều vì vậy nhu cầu dinh dưỡng của trẻ cũng tăng lên và sữa mẹ không thể đáp ứng nhu cầu này. Do đó, cần cho trẻ ăn bổ sung ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi 6 trở đi có sự thiếu hụt giữa mức tổng năng lượng cần cho trẻ và mức năng lượng do sữa mẹ cung cấp. Trẻ càng lớn thì sự thiếu hụt này càng tăng. Vì vậy đối với đa số trẻ, sau 6 tháng tuổi là thời gian tốt cho bắt đầu ăn bổ sung. Ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi giúp trẻ phát triển, hoạt động tốt và khỏe mạnh.

                     

Từ 6-12 tháng tuổi, cần tiếp tục cho trẻ bú vì sữa mẹ tiếp tục cung cấp hơn một nửa nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và từ 12-24 tháng, sữa mẹ cung cấp ít nhất một phần ba nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. Ngoài ra, sữa mẹ còn tiếp tục cung cấp các yếu tố kháng khuẩn bảo vệ trẻ khỏi mắc nhiều loại bệnh, mang lại sự gần gũi và gắn bó giúp trẻ phát triển tâm lý.

Sau 6 tháng tuổi, trẻ cần được học cách ăn bột đặc hay các thức ăn nghiền. Các thức ăn này cung cấp năng lượng nhiều hơn các thức ăn lỏng.

Trẻ ăn bột đặc hay thức ăn nghiền sau 6 tháng tuổi dễ hơn vì trẻ:


  • Thích nhìn người khác ăn và với tay lấy thức ăn

  • Thích đưa thứ gì đó vào miệng

  • Có thể điều chỉnh lưỡi tốt hơn để đưa thức ăn di chuyển trong miệng

  • Bắt đầu nhai và dịch chuyển hàm lên xuống

Ngoài ra, ở thời điểm này, hệ tiêu hoá của trẻ đủ phát triển để tiêu hoá hầu hết các loại thức ăn.

Nếu trẻ không được bú sữa mẹ (do 1 số lý do bắt buộc) nên tiếp tục sử dụng sữa thay thế sữa mẹ thích hợp cho tới khi trẻ được 6 tháng tuổi, không nên cho ăn bổ sung sớm.

Các nguy cơ khi bắt đầu cho trẻ ăn thức ăn bổ sung sớm (trước 179 ngày):


  • Làm cho trẻ ít bú sữa mẹ, không cung cấp đủ dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu của trẻ.

  • Tăng nguy cơ mắc một số bệnh vì thiếu các yếu tố bảo vệ bé có trong sữa mẹ.

  • Tăng nguy cơ bị mắc tiêu chảy do thức ăn bổ sung không sạch hay không tiêu hóa dễ như là sữa mẹ.

  • Tăng nguy cơ dị ứng vì trẻ chưa thể tiêu hoá được một số chất có trong thức ăn.

  • Tăng nguy cơ mang thai của bà mẹ nếu không cho con bú hoàn toàn.

Các nguy cơ khi bắt đầu cho trẻ ăn thức ăn bổ sung quá muộn (sau 270 ngày):


  • Trẻ không nhận được các thức ăn thêm để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ.

  • Trẻ không nhận đủ các chất dinh dưỡng dẫn tới suy dinh dưỡng và thiếu vi chất như dẫn đến còi xương do thiếu calci, thiếu máu do thiếu sắt…

3. NGUYÊN TẮC CHO TRẺ ĂN BỔ SUNG

  • Cho trẻ ăn từ lỏng tới đặc (thời gian tập cho ăn bột loãng chỉ từ 2-3 ngày, sau đó cho ăn đặc), từ ít tới nhiều, tập cho trẻ ăn quen dần với thức ăn mới.

  • Số lượng thức ăn và bữa ăn tăng dần theo tuổi, đảm bảo thức ăn hợp khẩu vị cho trẻ.

  • Chế biến thức ăn hỗn hợp giàu dinh dưỡng, sử dụng các thức ăn có sẵn ở địa phương.

  • Bát bột, bát cháo của trẻ ngoài bột, cháo ra còn cần thêm nhiều loại thức phẩm khác, tạo nên màu sắc thơm ngon, hấp dẫn và đủ chất.

                 

  • Khi chế biến, đảm bảo thức ăn mềm, dễ nhai, dễ nuốt.

  • Tăng thêm năng lượng của thức ăn bổ sung bằng cách cho thêm dầu, mỡ hoặc vừng, lạc (mè, đậu phộng) làm cho bát bột vừa thơm, vừa béo, mềm, trẻ dễ nuốt, lại cung cấp thêm năng lượng giúp trẻ mau lớn.

  • Đảm bảo vệ sinh ăn uống, chế biến thực phẩm cho trẻ để tránh gây rối loạn tiêu hóa. Rửa sạch tay trước khi chế biến thức ăn và khi cho trẻ ăn.

  • Cho trẻ bú càng nhiều càng tốt.

                 
  • Cho trẻ ăn nhiều hơn trong và sau khi bị ốm. Cho trẻ ăn uống nhiều chất lỏng hơn, đặc biệt khi bị tiêu chảy và sốt cao.

  • Không cho trẻ ăn bánh, kẹo, uống nước ngọt trước bữa ăn vì chất ngọt làm tăng đường huyết, gây ức chế tiết dịch vị, làm trẻ chán ăn, trẻ sẽ bỏ bữa hoặc ăn ít đi trong bữa ăn.

                
                     Không nên cho trẻ ăn bánh, kẹo trước bữa ăn

  • Khi cho trẻ ăn cần kiên nhẫn, luôn khuyến khích động viên để trẻ ăn tốt hơn.

4. SỐ LƯỢNG VÀ SỐ BỮA ĂN BỔ SUNG

4.1. Ăn bổ sung cho trẻ dưới một tuổi:


Bắt đầu từ sau 6 tháng tuổi, sữa mẹ không còn đáp ứng đủ cho sự phát triển toàn vẹn của trẻ nữa. Vì vậy, cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam, ăn dặm) là rất cần thiết. Khi bắt đầu ăn bổ sung, hệ tiêu hoá của trẻ cần có thời gian để thích nghi với thức ăn, trẻ cần học cách ăn, gia đình nên tập ăn cho trẻ bằng cách cho trẻ ăn lượng tăng dần, lúc đầu 2-3 thìa nhỏ/lần x 2 lần/ngày.

  • 6-8 tháng: Bú mẹ là chính, tập cho trẻ ăn từ bột loãng trong vòng vài ngày sau đó tăng dần lên 2 bữa bột mỗi ngày và nấu đặc dần.

  • 9-11 tháng: Vẫn bú mẹ là chính + 3-4 bữa bột đặc mỗi ngày + quả nghiền.Điều quan trọng là bà mẹ cần làm cho bát bột của trẻ có đủ cả 4 nhóm thức ăn: ngoài gạo ra còn có trứng hoặc thịt hoặc cá hoặc tôm hoặc cua, rau và nhất là dầu hoặc mỡ.

  •  Từ tháng thứ 7, cũng nên cho trẻ ăn thêm các loại quả chín như: chuối, hồng, đu đủ, cam, chanh, bưởi, xoài để cung cấp vitamin và chất khoáng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.

 4.2. Ăn bổ sung cho trẻ  1-2 tuổi

Ngoài sữa mẹ, trẻ 1-2 tuổi cần ăn thêm 3-4 bữa/ngày, có thể nấu theo kiểu cháo hỗn hợp. Gồm nhiều loại thực phẩm của cả 4 nhóm thức ăn như: gạo, thịt hoặc đậu, rau, dầu hoặc mỡ và chia đều cho trẻ ăn 4 bữa một ngày.

 4.3. Ăn bổ sung cho trẻ 2-3 tuổi:

Lúc này trẻ có thể ăn tất cả các thức ăn của người lớn, nhưng cần phải nấu nhừ để dễ nhai và dễ tiêu hóa như cơm nát, thức ăn hầm nhừ.

Trẻ hầu như không còn bú mẹ nên cần chú ý đảm bảo cho trẻ được ăn từ 5-6 bữa/ngày (3-4 bữa chính + 2 bữa phụ). Khi tròn 3 tuổi, có thể cho trẻ ngồi ăn chung mâm với gia đình và tập cho trẻ nhai kỹ để phát triển cơ nhai tốt hơn.


Ghi chú: Lượng thức ăn trên tính cho trẻ bú mẹ, nếu trẻ không được bú mẹ thì cho trẻ uống thêm 1-2 cốc sữa/ngày và ăn thêm 1-2 bữa/ngày.

Để cung cấp đủ năng lượng cho trẻ, bên cạnh bữa ăn chính, có thể cho trẻ ăn thêm bữa phụ. Dù vậy, không nên nhầm lẫn giữa bữa ăn phụ với các đồ ăn vặt cho trẻ như kẹo, khoai tây chiên hoặc các sản phẩm khác.

Bữa ăn phụ tốt cần đảm bảo cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng như: sữa chua, các sản phẩm của sữa, bánh mỳ, bánh qui, mật ong, trái cây, bánh đậu xanh, khoai tây nấu chín...

5. PHƯƠNG PHÁP TĂNG ĐỘ ĐẬM NHIỆT CỦA THỨC ĂN BỔ SUNG

Trong sữa mẹ 50% năng lượng là do chất béo, trong bột gạo chỉ có 1-3% năng lượng do chất béo, chế độ có đậm độ năng lượng thấp thì phải ăn nhiều hơn mới đáp ứng nhu cầu. Điều đó không dễ
thực hiện vì dạ dày trẻ còn bé, cho nên trẻ có thể ngừng ăn do có cảm giác no mặc dù chưa đủ nhu cầu dinh dưỡng. Tại thời điểm tám tháng tuổi, dạ dày của trẻ mỗi lần có thể chứa khoảng 200 ml. Các loại thức ăn lỏng và loãng nhanh chóng chiếm đầy thể tích dạ dày của trẻ làm cho bé no mà không đáp ứng đủ nhu cầu của trẻ. Muốn đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho trẻ, thức ăn bổ sung cần đảm bảo đủ độ đậm đặc.

Ở các nước phát triển đậm độ năng lượng của thức ăn bổ sung thường là 2kcal/ 1g, trong khi đó ở các nước đang phát triển chỉ là 1kcal/1g, đó là lý do gây nên tình trạng thiếu năng lượng kéo dài. Trẻ đang bú sữa mẹ là một thức ăn lỏng, khi chuyển sang bổ sung thức ăn cho trẻ phải chuyển dần từ thể lỏng sang thể sền sệt rồi mới đặc dần. Bát bột nấu xong khi còn nóng ở dạng lỏng, càng nguội càng đặc lại. Nếu pha thêm nước để đạt độ lỏng thích hợp thì sẽ làm giảm đậm độ năng lượng. Như vậy không đảm bảo nhu cầu năng lượng của trẻ.

Các cách làm tăng đậm độ năng lượng thức ăn cho trẻ:

-  Đối với bột hay các lương thực khác

  •  Nấu với ít nước và làm bột đặc hơn. Không nên nấu bột quá loãng.

  • Rang ngũ cốc trước khi xay thành bột. Hạt bột rang không to lắm nên cần ít nước trong khi nấu.

 

-  Với những thực phẩm như đậu đỗ, rau, thịt, cá: Nghiền hoặc băm nhỏ cho trẻ ăn cả cái thay vì chỉ cho trẻ ăn phần nước.

-  Thêm các loại thực phẩm giàu năng lượng và dinh dưỡng vào trong bột, cháo.

  • Cho thêm một thìa sữa bột sau khi nấu.

  • Trộn bột đậu đỗ với bột ngũ cốc trước khi nấu.

  • Khuấy bột sệt lại với bột lạc hay vừng.

                 

  • Thêm một thìa dầu ăn, mỡ, bơ.

-   Bổ sung bột mộng: Trộn bột vào các hạt nảy mầm: đậu xanh, ngô vàng, lúa… vào thức ăn của trẻ để tăng độ hòa tan, làm bột lỏng ra nên có thể tăng số lượng bột lên, độ nhớt giảm, trẻ ăn hết xuất. Ngoài ra hạt nảy mầm còn cung cấp thêm các vitamin, các vi chất cho trẻ. Nếu bổ sung 10% bột mộng thì lượng bột có thể tăng lên gấp 3 đến 4 lần trong cùng một thể tích nước.

6. THÀNH PHẦN CỦA THỨC ĂN BỔ SUNG

Mỗi nhóm thức ăn có thể cung cấp nhiều chất dinh dưỡng khác nhau. Tuy vậy, một nhóm thức ăn đơn độc hoặc bất kỳ một thức ăn nào, dù được gọi là tốt hay quý, cũng không thể cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ. Do vậy, cần đa dạng các thực phẩm, đa dạng các món ăn, thay đổi từng ngày và từng bữa. Cần đảm bảo cho trẻ được ăn đủ tám nhóm thực phẩm trong ngày.

 

6.1. Nhóm lương thực:

                      

Đó là nhóm thức ăn cung cấp nhiệt lượng chủ yếu trong khẩu phần ăn. Thực phẩm thuộc nhóm này gồm gạo, ngô, khoai, sắn….được chế biến dưới dạng bột để sử dụng cho trẻ.

6.2. Nhóm đậu, lạc, vừng và các sản phẩm chế biến

                       

Các loại đậu, lạc vừng có nhiều chất đạm. Đậu xanh, đậu đen có thể dung nấu trộn với gạo nếp, gạo tẻ. Đậu nành có giá trị dinh dưỡng cao, có thể chế biến nhiều loại thức ăn như sữa đậu nành, đậu phụ, tương… vừa giàu đạm lại có nhiều acid béo không no.

6.3. Nhóm sữa các loại và các sản phẩm từ sữa

                      

Sữa là thức ăn có giá trị cao. Sữa mẹ là thức ăn quý, bổ và phù hợp nhất với trẻ. Từ tháng thứ 6, bắt đầu cho trẻ ăn dặm, có thể bổ sung một phần sữa bò, sữa trâu, sữa dê cũng như trứng, thịt, rau xay nhỏ.

6.4. Nhóm trứng và các sản phẩm

                      

Trứng là thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao nhất nhưng có nhược điểm là chứa nhiều cholesterol nên cần ăn có mức độ. Mỗi tuần trung bình 2-3 quả.

6.5. Nhóm thịt các loại, cá và hải sản

                      

Thịt các loại: Là các loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, chứa nhiều acid amin quý ở tỷ lệ cân đối. Đặc biệt thịt có nhiều sắt dễ hấp thu. Các loại thịt: lợn, bò, gà, chim… đều cho trẻ ăn được, không nhất thiết phải ăn toàn thịt nạc, mà nên sử dụng cả nạc lẫn mỡ.

Cá và hải sản: Là loại thức ăn dễ tiêu hóa, có giá trị dinh dưỡng cao, có nhiều acid amin và acid béo quý.

6.6. Nhóm củ quả có mầu sẫm, màu da cam, màu đỏ hoặc rau tươi có màu xanh thẫm

                      

Là nguồn cung cấp vitamin và chất khoáng rất phong phú. Đây là loại thức ăn rất tốt đối với trẻ. Các loại rau có lá màu xanh đậm như: rau ngót,  rau muống, rau dền, mồng tơi, rau cải...đều chứa nhiều vitamin C và các vi chất như tiền vitamin A và sắt giúp trẻ phòng chống khô mắt và thiếu máu.

6.7. Nhóm rau, rễ, củ khác, quả chín và rau gia vị

                   
Cũng là nguồn cung cấp vitamin và chất khoáng rất phong phú. Đây là loại thức ăn rất tốt đối với trẻ. Các loại trái cây: Đu đủ, xoài, chuối, cam, quýt, hồng xiêm....cũng chứa nhiều vi chất khi ăn lại không bị hao hụt do không phải nấu nướng. Các loại rau gia vị, giàu vitamin, chất khoáng, hương liệu kích thích ăn ngon miệng: rau mùi, rau húng,thìa là, hành hoa…Ngoài ra có các củ gia vị như: hành, tỏi, gừng, nghệ….cho thêm màu sắc, hương vị phong phú cũng như các vi chất dinh dưỡng cho bữa ăn của trẻ.

6.8.  Nhóm dầu/mỡ và bơ

                      

Gồm dầu, bơ, mỡ...., dầu và mỡ bổ sung năng lượng cho bữa ăn của trẻ. Chúng còn làm cho thức ăn mềm hơn và dễ nuốt. Ngoài mỡ động vật nên cho trẻ ăn dầu vừng, dầu đậu nành..., dầu ăn dễ hấp thu hơn mỡ. Cho trẻ ăn dầu mỡ ngoài việc tăng năng lượng của khẩu phần ăn còn giúp trẻ hấp thu dễ dàng các loại vitamin tan trong dầu như: Vitamin A, D, E, K ...

Ngoài ra trong các bữa ăn bổ sung còn sử dụng các loại muối ăn, nước chấm, đường...

Đối với muối: cần được tiêu thụ hàng ngày nhưng chỉ cần một lượng rất ít. Nếu tỉnh cả lượng muối có trong nước mắm, nước chấm các loại, bột canh, hạt nêm thi cơ thể chỉ cần 6 g/ngày. Trong chế biến bữa ăn bổ sung cho trẻ cần sử dụng những chế phẩm chứa muối nêu trên nhưng với số lượng hợp lý.

Đối với đường: Cần được tiêu thụ ít, ngay với người trưởng thành thì mức tiêu thụ không quá 20 g/ngày. Do vậy, với trẻ em, không nên lạm dụng đường trong chế biến thức ăn bổ sung cho trẻ


7. THỨC ĂN BÙ ĐẮP SỰ THIẾU HỤT SẮT, KẼM VÀ VITAMIN A


Sắt, kẽm và vitamin A đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo máu, tăng trưởng, tăng khả năng bảo vệ cơ thể trẻ trước các bệnh, đặc biệt là các bệnh nhiễm khuẩn khi cơ thể bé còn non nớt. Vì thế, khi chọn các thực phẩm trong bốn nhóm trên, nên chọn các thực phẩm có giàu sắt, kẽm và vi- tamin A cũng như phối hợp các thực phẩm khi chế biến món ăn cho trẻ làm sao để tăng khả năng hấp thu các chất trên.

Các thực phẩm giàu sắt:

                      

  • Thịt hoặc phủ tạng của động vật, chim và cá (bao gồm cả tôm cua sò hến và cá nhỏ đóng hộp) cũng như các thức ăn chế biến từ tiết rất giàu sắt và kẽm.

  • Các loại đậu đỗ, các lá rau màu xanh đậm cũng là nguồn thực phẩm giàu sắt. Tuy nhiên, thực phẩm có chứa sắt vẫn chưa đủ, mà sắt còn phải ở dạng dễ được cơ thể hấp thu và sử dụng.

Các thực phẩm giàu Vitamin A:

  • Chế độ ăn của trẻ cần có thức ăn động vật như trứng, cá, thịt và đủ dầu, mỡ để hỗ trợ hấp thu vitamin A.

                 

  • Các loại rau có hàm lượng tiền vitamin A đáng chú ý là rau muống, xà lách, rau ngót, rau diếp, rau dền, hành lá, hẹ lá, rau thơm, các loại củ quả như gấc, cà rốt, quả chín như đu đủ, xoài…

8. NHU CẦU NƯỚC CỦA TRẺ NHỎ

Nếu trẻ khát thì cho uống nước là tốt nhất. Cũng có thể cho trẻ uống các loại nước trái cây. Cho trẻ uống quá nhiều nước trái cây có thể làm trẻ bị tiêu chảy hoặc làm trẻ ăn không ngon miệng.

Đồ uống có nhiều đường sẽ làm trẻ cảm thấy khát hơn hoặc cơ thể phải giải quyết lượng đường thừa. Nếu nước quả đóng hộp có bán sẵn ở địa phương, nên xem loại nào là nước quả tinh khiết và loại nào được cho thêm đường. Không nên cho trẻ uống các loại nước ngọt có ga.

Đôi khi trẻ khát trong khi ăn. Cho trẻ uống một lượng nước nhỏ trẻ sẽ hết khát và ăn được nhiều hơn.

Cần nhớ rằng trẻ không được bú sữa mẹ cần được chăm sóc đặc biệt hơn. Những trẻ này khi đạt độ tuổi 6 đến 24 tháng, trẻ cần khoảng 2-3 cốc nước một ngày (1 cốc = 250ml) khi thời tiết có nhiệt độ trung bình, 4-6 cốc nước/1 ngày khi thời tiết nóng. Lượng nước này có thể tính cả lượng cháo hay súp, nhưng trẻ cũng cần được cho uống nước sạch vài lần trong ngày để đảm bảo trẻ không bị khát

9. MỘT SỐ SAI LẦM HAY GẶP KHO CHO TRẺ ĂN BỔ SUNG

Sử dụng thực phẩm giàu đạm không đúng: Sai lầm chủ yếu là cho trẻ ăn dưới dạng nước thịt (chỉ cho ăn nước, không dùng cái, sợ trẻ hóc), nước xương hầm… Không biết sử dụng nguồn chất đạm dồi dào khác ngoài thịt, cá như ăn trứng sợ trẻ đầy bụng, tôm, cua sợ trẻ ho và ỉa chảy. Không biết dùng các loại đậu đỗ, lạc, vừng là nguồn đạm thực vật, tuy giá rẻ nhưng cũng rất tốt.

Ít sử dụng dầu mỡ trong bữa ăn của trẻ: Vì cho rằng dầu mỡ khó tiêu hóa, gây ỉa chảy

Không cho trẻ ăn các loại rau xanh: Thường các bà mẹ chỉ dùng nước rau luộc, ngay cả các loại củ như khoai tây, cà rốt cũng chỉ lấy nước ninh để quấy bột cho trẻ. Một số bà mẹ quan niệm sai lầm cho rằng trẻ không ăn được rau, và ăn rau dễ rối loạn tiêu hóa.

Cho trẻ ăn cơm quá sớm khi chưa có răng: Các bà mẹ cho rằng ăn cơm sớm trẻ sẽ cứng cáp, nhanh biết đi. Thực tế nếu cho trẻ ăn cơm quá sớm, trẻ chỉ nuốt chửng với nước rau luộc hoặc nước canh vì vậy bộ máy tiêu hóa phải làm việc quá sức. Khi ăn cơm thường là ăn chung với gia đình, trẻ ít được quan tâm, ưu tiên thức ăn nên bữa ăn của trẻ không được đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng.

10. THÔNG ĐIỆP CHÍNH VỀ THỨC ĂN BỔ SUNG


  • Cho trẻ bú mẹ đến 2 tuổi hoặc lâu hơn nữa sẽ giúp trẻ phát triển và khoẻ mạnh.

  • Bắt đầu cho trẻ ăn thức ăn bổ sung từ 6 tháng tuổi giúp trẻ phát triển tốt.

  • Trẻ đang lớn mỗi ngày cần 3 bữa chính và các bữa phụ: cho trẻ ăn nhiều loại thức ăn.

  • Lượng thức ăn tăng dần theo tuổi của trẻ.

  • Thức ăn đặc đến độ giữ được ở trên thìa sẽ cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ hơn.

  • Các thực phẩm nguồn gốc động vật rất tốt cho trẻ, giúp trẻ phát triển khoẻ mạnh và năng động.

  • Tập cho trẻ ăn ít muối và đường ngọt từ khi mới ăn dặm

  • Không nên cho gia vị mắm muối vào thức ăn của trẻ dưới 1 tuổi, vì thận của trẻ dưới 1 tuổi không tải quá 1g muối mỗi ngày, lượng muối  trong thực phẩm đã đủ cung cấp cho nhu cầu của trẻ. Từ 1 tuổi có thể cho mắm muối nhưng phải nấu nhạt hơn khẩu vị của người lớn. Tập thói quen ăn nhạt cho trẻ từ nhỏ là cách tốt nhất phòng ngừa các bệnh về tim mạch, huyết áp và thận sau này.

  • Đậu, đỗ, rau đậu, lạc và các loại hạt đều là thức ăn tốt cho trẻ.

  • Các loại rau có lá màu xanh đậm, củ quả có màu vàng giúp trẻ có đôi mắt sáng và tránh được các bệnh nhiễm khuẩn.

  • Trẻ đang lớn mỗi ngày cần 3 bữa chính và các bữa phụ: cho trẻ ăn nhiều loại thức ăn.

  • Lượng thức ăn tăng dần theo tuổi của trẻ.

  • Trẻ nhỏ cần học cách ăn: khuyến khích, kiên trì và giúp cho trẻ ăn.

  • Khuyến khích trẻ ăn khi trẻ bệnh, cho trẻ ăn thêm khi trẻ khỏi bệnh sẽ giúp trẻ hồi phục nhanh chóng.

                                                                              Nguồn: Viện Dinh dưỡng