Phần thứ nhất-Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng, Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030

Cập nhật: 5/26/2017 - Lượt xem: 27113

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VỀ DINH DƯỠNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2010

I/            KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Tiếp theo bản Kế hoạch hành động quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 1995-2000, Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 21/2001/QĐ-TTg ngày 22/2/2001 là văn bản về đường lối dinh dưỡng của Nhà nước, định hướng cho các can thiệp dinh dưỡng trong giai đoạn 2001 - 2010 từ nguồn đầu tư của Nhà nước, huy động sự tham gia của cộng đồng, đồng thời cũng là cơ sở để kêu gọi hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế. Qua 10 năm thực hiện, nhờ triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, sự phối hợp liên ngành và lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, tình trạng dinh dưỡng của nhân dân ta nói chung, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em dưới 5 tuổi nói riêng đã được cải thiện rõ rệt, nhận thức của người dân về dinh dưỡng hợp lý đã được nâng cao. 

 1-      Công tác truyền thông, vận động, giáo dục phổ biến kiến thức thực hành dinh dưỡng hợp lý cho toàn dân đã đạt được kết quả tốt

  • Qua 10 năm triển khai, công tác tư vấn, truyền thông, vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về dinh dưỡng hợp lý đã ngày càng đa dạng, phong phú hơn về cả hình thức và nội dung, tiếp cận tốt hơn các đối tượng nhân dân kể cả ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Nhờ đó đã có tác động rõ rệt tới nhận thức của các đối tượng trong cộng đồng.
  • Nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về tầm quan trọng của dinh dưỡng cũng đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng đã trở thành một trong những chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và các địa phương. Giảm suy dinh dưỡng trẻ em có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển giống nòi và góp phần tăng trưởng GDP hàng năm.
  • Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng cho trẻ ốm tăng từ 44,5% năm 2005 lên 67% vào năm 2009, tỷ lệ nữ thanh niên được huấn luyện về dinh dưỡng và kiến thức làm mẹ đạt 28% vào năm 2005 và 44% vào năm 2010; đạt chỉ tiêu Chiến lược đề ra.

 2-      Ban hành các chủ trương, chính sách hỗ trợ cho dinh dưỡng

  • Trong 10 năm qua, nhiều văn kiện, chính sách của Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ngành được ban hành đã tạo hành lang pháp lý và định hướng cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục  tiêu của Chiến lược. Hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng là một trong số ít chỉ tiêu của Ngành Y tế được đưa vào văn kiện các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hàng năm chỉ tiêu này cũng được Quốc hội thông qua và đưa vào nghị quyết, có kiểm điểm và đánh giá.
  • Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg ngày 19/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ và Chăm sóc sức khoẻ nhân dân; Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản; Chiến lược Dân số Việt Nam; Nghị định số 163/2005/NĐ-CP ngày 29/12/2005 về sản xuất và cung ứng muối iốt cho người ăn; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 149/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2006-2010; Nghị định số 21/2006/NĐ-CP ngày 27/02/2006 về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ; Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 23/12/2009 của Chính phủ về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 23/9/2009 của Chính  phủ về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản; Luật An toàn thực phẩm; Quyết định số 239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/02/2010 về việc phê duyệt đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010- 2015; và nhiều văn bản khác đã được ban hành là những văn bản quan trọng thể hiện chủ trương, chính sách hỗ trợ cho chương trình dinh dưỡng của Nhà nước ta, tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu của Chiến lược.

 3-      Tăng cường nguồn đầu tư cho Dinh dưỡng

  • Trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đầu tư cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng, đặc biệt đối với trẻ em trước tuổi học đường. Từ năm 2000, dự án phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi là một trong các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS với ngân sách đầu tư khoảng 100 tỷ/năm. Bên cạnh đó, nhờ làm tốt công tác truyền thông vận động, công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em cũng được bổ sung thêm hàng chục tỷ đồng mỗi năm bằng nguồn ngân sách của địa phương và thông qua sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế
  • Bên cạnh đầu tư của Nhà nước, trên cơ sở định hướng của Chiến lược, các tổ chức Quốc tế, Chính phủ các nước và các tổ chức phi chính phủ (UNICEF, WHO, FAO, ADB, các Chính phủ Hà Lan, Nhật Bản, Úc, …) đã quan tâm và hỗ trợ để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược. Nhờ đó chương trình dinh dưỡng đã có các điều kiện thuận lợi để triển khai đều trên quy mô toàn quốc.

 4-      Công tác chỉ đạo phối hợp liên ngành từ trung ương đến địa phương được đẩy mạnh

  • Phối hợp liên ngành là một trong những giải pháp quan trọng để triển khai hiệu quả các chương trình/hoạt động dinh dưỡng. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại quyết định số 21/2001/TTg ngày 22/2/2001, Bộ Y tế được giao là cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm cùng các Bộ, Ban, Ngành, Đoàn thể, phối hợp với các tổ chức quốc tế xây dựng, chỉ đạo, điều phối, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược. Ban Chỉ đạo Chiến lược đã chú trọng công tác xây dựng kế hoạch, với cách tiếp cận liên ngành, đa ngành, huy động các nguồn lực khác nhau để triển khai Chiến lược. Ở các Bộ, Ban, Ngành Trung ương đều có các đơn vị đầu mối triển khai Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng (CLQGDD) và đã chủ động xây dựng kế hoạch hành động để phối hợp thực hiện. Nhiều cơ quan ban, ngành đã lồng ghép các can thiệp dinh dưỡng vào hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đơn vị như Bộ Giáo dục và Đào tạo (cấp học Mầm non, Tiểu học); Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vv…
  • Sau khi Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng được phê duyệt, các tỉnh, thành phố đã chủ động thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chiến lược do Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố (UBND) làm trưởng ban, Sở Y tế là cơ quan thường trực và đã xây dựng kế hoạch thực hiện Chiến lược cũng như đưa chỉ tiêu giảm suy dinh dưỡng trẻ em vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm của địa phương.
  • Nhiều tỉnh, thành phố đã phát huy mạnh mẽ công tác phối hợp liên ngành như tổ chức ký văn bản “Cam kết liên ngành” và giám sát thực hiện hiệu quả các cam kết đó.

 5-      Mạng lưới triển khai Chiến lược dinh dưỡng được củng cố và mở rộng

  • Mạng lưới thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ Chiến lược đã được củng cố. Tại trung tâm Y tế dự phòng của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có khoa Dinh dưỡng - Vệ sinh an toàn thực phẩm. Mạng lưới chăm sóc Sức khỏe sinh sản cả nước đều có các chuyên trách phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em được triển khai ở cả 3 cấp: tỉnh, huyện, xã. 100% các xã đều có cán bộ chuyên trách dinh dưỡng và cộng tác viên dinh dưỡng đã bao phủ tới tận thôn/bản với số lượng trên 100.000 người. Bên cạnh đó, các mạng lưới như mạng lưới tư vấn dinh dưỡng, mạng lưới làm công tác dinh dưỡng của các Bộ, ban, ngành cùng tham gia triển khai Chiến lược như: Giáo dục và Đào tạo, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ và các ngành khác đã được thiết lập và đang được mở rộng. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ dinh dưỡng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược. Đào tạo cán bộ chuyên sâu về dinh dưỡng được đẩy mạnh. Các bộ môn dinh dưỡng ở các trường đại học trong và ngoài Ngành Y tế đã được thành lập và triển khai đào tạo. Để xây dựng mạng lưới cán bộ dinh dưỡng vững mạnh từ Trung ương đến địa phương, Viện Dinh dưỡng đã phối hợp với các trường đại học đào tạo nhiều khóa nghiên cứu sinh, cao học và kỹ thuật viên dinh dưỡng tiết chế. Hiện tại, chương trình đào tạo cử nhân dinh dưỡng đang được xây dựng nhằm cung cấp thêm nhân lực cho các chương trình dinh dưỡng ở địa phương.
  • Trong khuôn khổ của Chiến lược, nhiều lớp tập huấn về chuyên môn, kỹ thuật cho cán bộ ngoài Ngành Y tế thuộc các Bộ, Ngành làm công tác dinh dưỡng từ Trung ương đến địa phương cũng đã được triển khai góp phần nâng cao năng lực và thực hiện có hiệu quả các chương trình dinh dưỡng.

 6-      Cải thiện rõ rệt tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em và bà mẹ

  • Trong giai đoạn 2001 – 2010 tình trạng dinh dưỡng của người dân Việt Nam nói chung và của bà mẹ, trẻ em nói riêng đã được cải thiện rõ rệt.
  • Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân (cân nặng/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm mạnh, tính chung cả nước mỗi năm trung bình giảm khoảng 1,5%, từ 31,9% năm 2001 xuống còn 25,2% vào năm 2005 và 17,5% vào năm 2010 (vươt chỉ tiêu của Chiến lược đặt ra). Thành tựu giảm suy dinh dưỡng liên tục và bền vững của Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế thừa nhận và đánh giá cao.
  • Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã  giảm đáng kể từ 43,3% năm 2000 xuống còn 29,3% vào năm 2010. Tuy vậy Việt Nam vẫn còn nằm trong số 36 quốc gia có tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cao trên phạm vi toàn cầu.[1]
  • Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em < 5 tuổi chung toàn quốc là 4,8% (thành phố: 5,7%; nông thôn: 4,2%), đạt so với mục tiêu Chiến lược đề ra là dưới 5%. 
  • Tỷ lệ trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (dưới 2500 gam): đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng của Chiến lược và là một trong các chỉ tiêu chính về sức khỏe, dinh dưỡng mà Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo cần thu thập. Theo số liệu thống kê của mạng lưới giám sát dinh dưỡng (Viện Dinh dưỡng) năm 2009, tỷ lệ này là 12,5%.
  • Tình trạng thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ phản ánh những hạn chế trong chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cho phụ nữ, đồng thời có liên quan đến tỷ lệ suy dinh dưỡng bào thai. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ tính chung toàn quốc mỗi năm giảm 1%. Theo kết quả điều tra dinh dưỡng năm 2005 và 2009 được Tổng Cục Thống kê công bố cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ được thể hiện bằng chỉ số khối cơ thể thấp (BMI <18,5) giảm từ 28,5% năm 2000 xuống còn 21,9 % vào năm 2005 và 19,6% vào năm 2009. Tính chung từ năm 2000 đến năm 2009 tốc độ giảm là 0,98%/năm (mục tiêu đề ra là 1%).

 7-      Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu vitamin A, thiếu Iốt và giảm đáng kể tình trạng thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai.

  • Phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng là một giải pháp quan trọng trong cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của phụ nữ, trẻ em (đặc biệt đối với suy dinh dưỡng thấp còi). Trong 10 năm qua, mỗi năm trên 85% trẻ em trong độ tuổi 6 - 36 tháng và trên 60% bà mẹ sau sinh trong vòng 1 tháng đầu được uống vitamin A. Các đối tượng có nguy cơ cao (trẻ em bị viêm phổi, sởi, tiêu chảy kéo dài) đều được uống bổ sung viên nang vitamin A liều cao và đảm bảo an toàn. Việt Nam đã thanh toán thiếu vitamin A thể lâm sàng và duy trì bền vững từ năm 2001.  
  • Các rối loạn do thiếu hụt Iốt cơ bản đã được thanh toán từ năm 2005. So với chỉ tiêu của Chiến lược, chúng ta đã đạt chỉ tiêu về hạ thấp tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em 8 - 12 tuổi nhưng chưa đạt về chỉ tiêu duy trì mức Iốt niệu trung vị và độ bao phủ của muối Iốt (độ bao phủ muối Iốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh năm 2005 là 91,9% giảm xuống còn 69,5% vào năm 2009).
  • Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ có thai tại các vùng có chương trình giảm xuống còn 18,9% vào năm 2009, đã đạt được mục tiêu của Chiến lược. Tuy nhiên, vùng có chương trình đã thu hẹp lại so với năm 2000 do nguồn cung cấp viên sắt/folic phụ thuộc vào nguồn viện trợ quốc tế. Đến năm 2009 tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ mang thai tính chung trên toàn quốc vẫn còn cao, ở mức 36,5%. Bên cạnh các giải pháp bổ sung trực tiếp vitamin A, viên sắt/acid folic thì giải pháp tiếp cận tăng cường vi chất vào thực phẩm đã được áp dụng như tăng cường I ốt vào muối ăn, sắt vào nước mắm và một số thực phẩm khác.

 8-      Vệ sinh an toàn thực phẩm.

  • Trong 10 năm qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đã được ban hành. Kế hoạch hành động Quốc gia bảo đảm VSATTP đến năm 2010 và Chương trình mục tiêu quốc gia VSATTP giai đoạn 2006 - 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã góp phần quan trọng đưa các chính sách, các quy chuẩn về VSATTP phù hợp với các tiêu chuẩn khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Luật An toàn thực phẩm (ATTP) đã được Quốc hội thông qua trong tháng 6 năm 2010 là công cụ pháp lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác VSATTP để bảo vệ sức khỏe người dân.
  • Hệ thống quản lý chất lượng, thanh tra và kiểm nghiệm VSATTP được củng cố ngày một hoàn thiện hơn: thành lập Viện Kiểm nghiệm An toàn trực thuộc Bộ Y tế (2009). Nhiều phòng kiểm nghiệm An toàn thực phẩm thực phẩm quốc gia thuộc các Viện nghiên cứu ở trung ương và khu vực cũng đã được thành lập và nâng cấp. Hệ thống tổ chức quản lý An toàn thực phẩm ở địa phương được kiện toàn. Hệ thống Chi cục An toàn thực phẩm của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã được thành lập. “Tháng hành động vì chất lượng An toàn thực phẩm” trong toàn quốc được tổ chức định kỳ từ 15 tháng 4 đến 15 tháng 5 hàng năm.
  • Nhờ có chuyển biến đồng bộ trong công tác tổ chức, quản lý và triển khai từ trung ương đến địa phương nên công tác an toàn thực phẩm đã đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt. Năm 2009 số vụ ngộ độc hàng loạt giảm 53,5% so với năm 1999; Số người mắc giảm 31,2%; Số người chết do ngộ độc thực phẩm giảm 51,4% so với năm 1999.

 9-      Hợp tác quốc tế

Các dự án hợp tác quốc tế song phương, đa phương đã dựa vào các định hướng, mục tiêu, giải pháp của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng để triển khai ở nhiều địa phương trong cả nước như: Dự án dinh dưỡng do tổ chức UNICEF tài trợ bao gồm cung cấp viên nang vitamin A cho trẻ em hàng năm, hỗ trợ chương trình nuôi con bằng sữa mẹ, chương trình phòng chống bướu cổ, hỗ trợ cho công tác vận động xã hội và hoạt động theo dõi, đánh giá về dinh dưỡng. Dự án "Nâng cao năng lực triển khai có hiệu quả hoạt động cải thiện bền vững tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em 10 tỉnh khó khăn” do Chính phủ Hà Lan viện trợ giai đoạn 2005 - 2008; Dự án “Bổ sung sắt vào nước mắm” do tổ chức GAIN tài trợ thông qua Ngân hàng Thế giới giai đoạn 2005 - 2008; Dự án “Tăng cường thức ăn bổ sung cho trẻ 6 - 24 tháng tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng ở vùng nghèo” và dự án “Cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em thông qua bổ sung vitamin A cho trẻ từ 6 - 60 tháng tuổi kết hợp với tẩy giun cho trẻ từ 24 - 60 tháng tuổi tại 18 tỉnh khó khăn của Việt Nam” do Qũy xóa đói giảm nghèo Nhật Bản viện trợ thông qua Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Các dự án này đã đóng góp thiết thực vào việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người dân Việt Nam.

II/         KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ

1-    Trong 10 năm qua mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư cho các chương trình dinh dưỡng, nhưng ngân sách đầu tư còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết để đạt được toàn bộ các mục tiêu của Chiến lược. Nhiều địa phương chưa quan tâm hỗ trợ cho chương trình dinh dưỡng. Mặt khác từ năm 2005 hỗ trợ kinh phí của Quốc tế cho các hoạt động về dinh dưỡng đối với Việt Nam đã bị giảm dần;

2-    Mạng lưới triển khai hoạt động về dinh dưỡng còn chưa ổn định, thiếu đồng bộ, nhiều cán bộ làm dinh dưỡng đã chuyển sang làm công tác khác. Đội ngũ cán bộ làm công tác dinh dưỡng ở cả cộng đồng, trường học và trong bệnh viện còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Số cán bộ mới thay thế chưa được đào tạo một cách có hệ thống về dinh dưỡng. Sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp ở một số địa phương về dinh dưỡng còn hạn chế. Nhận thức về dinh dưỡng hợp lý của cộng đồng còn thấp;

3-    Kiến thức, thực hành dinh dưỡng chưa hợp lý còn phổ biến ở các bà mẹ và các thành viên trong gia đình, đặc biệt ở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;

4-    Việc thực hiện vệ sinh, an toàn thực phẩm nhiều nơi, nhiều lúc chưa tốt, ảnh hưởng đến chất lượng dinh dưỡng của người dân;

5-    Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em còn có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền (cả suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi). Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên còn rất cao so với trung bình cả nước cũng như so với các vùng khác đòi hỏi các can thiệp thích hợp.

6-    Một số chỉ tiêu chưa đạt như mong muốn:

  • Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi còn ở mức cao (29,3% - 2010); đến năm 2010 vẫn còn 28 tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cao hơn mức trung bình của cả nước, trong đó 12 tỉnh có tỷ lệ trên 35%. Đây là mức rất cao theo xếp loại của Tổ chức Y tế Thế giới;
  • Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ mang thai tính chung trên phạm vi toàn quốc vẫn còn cao, ở mức 36,5%;
  • Tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ còn thấp (4 tháng là 29,3%; 6 tháng là 19,6%), mặc dù tỷ lệ bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ đạt 93%;
  • Độ bao phủ muối Iôd đủ tiêu chuẩn phòng bệnh không được duy trì bền vững sau khi kết thúc dự án vào năm 2005.

III/      NGUYÊN NHÂN

1.     Nguyên nhân của những kết quả đạt được:

1.1.    Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp

  • Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ngành đã ban hành nhiều chủ trương chính sách, văn bản chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện Chiến lược quốc gia dinh dưỡng và các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng. Tại kỳ họp thường niên lần thứ 35 của Ủy ban thường trực về Dinh Dưỡng của Liên hợp quốc tổ chức tại Hà Nội (3/2008). Nhà nước Việt Nam cam kết tiếp tục nỗ lực để ngăn chặn suy dinh dưỡng trẻ em, phấn đấu giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 20% vào năm 2010 và dưới 15% vào năm 2015;
  • Chỉ tiêu giảm suy dinh dưỡng đã được đưa vào Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết hàng năm của Quốc hội và HĐND các cấp;
  •  Đầu tư của Chính phủ và chính quyền các cấp cho chương trình dinh dưỡng tăng lên hàng năm. Đầu tư của trung ương cho dự án mục tiêu quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em từ mức 30 tỷ năm 2001 đã tăng lên 122 tỷ năm 2010. Tương tự như vậy, đầu tư của các địa phương cho chương trình dinh dưỡng cũng đã tăng từ 8 tỷ năm 2001 lên đến 20 tỷ vào năm 2010.

1.2.    Sự tham gia tích cực của các Bộ, Ngành, Đoàn thể, tổ chức xã hội.

  • Trong quá trình tổ chức thực hiện Chiến lược, hầu hết các B/ Ngành, Đoàn thể, tổ chức xã hội đã có những hình thức, mô hình hoạt động riêng, phù hợp với đối tượng tác động và nội dung nhiệm vụ được giao, huy động được sự tham gia ngày càng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Một số Bộ, Ngành đã tham mưu cho Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản đường lối chính sách hỗ trợ cho dinh dưỡng, xây dựng chương trình hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng của ngành mình;
  • Hầu hết các địa phương đã triển khai tốt công tác phối hợp liên ngành thực hiện Chiến lược.

1.3.    Hoạt động dinh dưỡng được triển khai toàn diện từ trung ương đến địa phương

  • Sau khi được Chính phủ giao nhiệm vụ, Bộ Y tế với tư cách là cơ quan chủ trì, Viện Dinh dưỡng là cơ quan đầu mối đã có chiến lược can thiệp đúng đắn, tổ chức thực hiện hợp lý, giám sát triển khai khoa học và chặt chẽ;
  • Các hoạt động dinh dưỡng được triển khai sâu rộng từ trung ương xuống đến tận các xã, phường trong cả nước nhờ mạng lưới chuyên trách và cộng tác viên dinh dưỡng và huy động được các ban/ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và cộng đồng cùng tham gia;
  • Ý thức về dinh dưỡng hợp lý nói chung và phòng chống suy dinh dưỡng nói riêng trong các tầng lớp cán bộ cũng như cộng đồng đã được nâng cao.

1.4.    Kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ tạo môi trường thuận lợi

Trong 10 năm qua, kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm liên lục và bền vững, hệ thống giáo dục đào tạo, thông tin - truyền thông phát triển mạnh mẽ, hội nhập quốc tế sâu rộng và ứng dụng các thành tựu khoa học thực phẩm dinh dưỡng đã góp phần cải thiện đời sống và tạo sự thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin, kiến thức về sức khỏe và dinh dưỡng cho người dân.

1.5.    Huy động được sự hỗ trợ có hiệu quả của các tổ chức quốc tế, Chính phủ các nước và các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước

Các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ đã hỗ trợ kỹ thuật, tài chính cho việc thực hiện nhiều nội dung của Chiến lược như nghiên cứu, đào tạo cán bộ, giáo dục truyền thông, triển khai các dự án can thiệp. Các can thiệp về Dinh dưỡng đã được tăng cường nguồn lực thông qua các dự án trong nước và hợp tác quốc tế. Công tác huy động xã hội, đặc biệt là huy động nguồn lực cho mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em đã đạt hiệu quả cao.

2.     Nguyên nhân của những khó khăn hạn chế

2.1. Cấp uỷ Đảng, chính quyền và cộng đồng ở một số địa phương còn chưa quan tâm hoặc chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề dinh dưỡng

  • Ở một số địa phương, Ban chỉ đạo CLQGDD hoặc Ban chỉ đạo phòng chống SDD trẻ em đã được thành lập theo chỉ đạo của Trung ương nhưng hoạt động còn mang tính hình thức. Cơ quan thường trực chưa chủ động tham mưu, đề xuất đưa chỉ tiêu về dinh dưỡng vào các Nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương. Việc triển khai hoạt động, theo dõi, đánh giá, tổng kết vẫn chủ yếu do Ngành Y tế thực hiện;
  • Nhận thức, hiểu biết của một bộ phận người dân về chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng hợp lý còn hạn chế.

2.2. Đầu tư nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu

  • Đầu tư nguồn lực cho công tác dinh dưỡng chưa đáp ứng nhu cầu triển khai toàn diện và đồng bộ trên phạm vi cả nước. Đội ngũ cán bộ làm công tác dinh dưỡng, đặc biệt là dinh dưỡng tiết chế còn mỏng, chưa ổn định, chất lượng cán bộ còn nhiều hạn chế;
  • Kinh phí đầu tư cho công tác dinh dưỡng mới chỉ tập trung được cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi mà chủ yếu là phòng chống suy dinh dưỡng thể nhẹ cân. Còn nhiều vấn đề dinh dưỡng quan trọng khác như phòng chống suy dinh dưỡng thấp còi, phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Việc huy động kinh phí địa phương để thực hiện các chỉ tiêu của Chiến lược cũng còn hạn chế. Nhiều địa phương vẫn thụ động, chủ yếu trông chờ kinh phí Trung ương. Kinh phí từ nguồn hỗ trợ quốc tế chưa được điều phối, quản lý thống nhất theo hướng ưu tiên của Quốc gia;

2.3. Công tác điều hành và tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế

  • Các chủ trương, chính sách liên quan đến công tác dinh dưỡng còn thiếu đồng bộ, nhất quán (Ngành Y tế khuyến khích nuôi còn bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, Luật Lao động quy định chế độ nghỉ thai sản chỉ có 4 tháng). Nhiều lĩnh vực còn chồng chéo như an toàn vệ sinh thực phẩm, sản xuất và kinh doanh sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ. Mạng lưới tổ chức làm công tác dinh dưỡng còn thiếu, chưa ổn định, chất lượng còn hạn chế;
  • Việc xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu và phân bổ kinh phí chưa tính toán đầy đủ đến thực tế của địa phương. Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động chưa được giám sát một cách chặt chẽ;
  • Ở một số địa phương, vai trò điều phối, chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật của Ngành Y tế chưa được các cấp có thẩm quyền quan tâm đúng mức. Nhiều chương trình dự án liên quan đến dinh dưỡng của các ban, ngành còn chưa chú ý đúng mức tới yêu cầu chuyên môn kỹ thuật cũng như tính bền vững của các can thiệp;
  • Việc phối hợp liên ngành trong một số hoạt động còn mang tính hình thức, kinh phí dành cho hoạt động dinh dưỡng của các bộ ngành còn hạn chế, thiếu sự điều phối thống nhất trong tổng thể chung để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược.

IV/       NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

  1. Sự cam kết mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác dinh dưỡng là một yếu tố hết sức quan trọng và tiên quyết đảm bảo sự thành công của công tác này. Mục tiêu về phòng chống suy dinh dưỡng cần được đưa vào Nghị quyết của Đại hội Đảng, Nghị quyết hàng năm của Quốc hội và của HĐND các cấp;
  2. Suy dinh dưỡng không chỉ do thiếu ăn mà còn do thiếu kiến thức chăm sóc hợp lý nên công tác tư vấn, truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ hành vi về dinh dưỡng hợp lý của người dân là rất quan trọng và cần được duy trì thường xuyên; 
  3. Hoạt động về dinh dưỡng đòi hỏi các giải pháp dựa trên phân tích tình hình thực tế của mỗi địa phương. Do đó, cần thường xuyên tập hợp các sáng kiến, đề xuất của cơ sở và các mô hình thí điểm để chỉ đạo và định hướng cho công tác triển khai có hiệu quả;
  4. Bài học thành công về giảm suy dinh dưỡng trẻ em ở nhiều tỉnh, thành phố cho thấy vai trò quan trọng của công tác phối hợp liên ngành và các đoàn thể xã hội ở các cấp;
  5.  Thực hiện tốt hoạt động đánh giá, theo dõi một cách có hệ thống tình trạng dinh dưỡng và tiêu thụ thực phẩm, chú trọng vùng và các nhóm đối tượng nguy cơ cao. Đồng thời thực hiện các nghiên cứu để phát hiện, nhận định, đánh giá những vấn đề dinh dưỡng mới nảy sinh, từ đó đưa ra các giải pháp can thiệp kịp thời;
  6. Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, huy động mọi nguồn lực để tăng cường nguồn lực cho các hoạt động dinh dưỡng.