Mười nước đang trong đúng lộ trình thực hiện thành công Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 4 (giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới một tuổi và dưới năm tuổi) và Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5 (giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ)” là: Việt Nam, Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc, Ai Cập, Ethiopia, Lào, Nepal, Peru và Rwand.
Báo cáo này sẽ chính thức được công bố tại Diễn đàn Liên minh các Đối tác về sức khỏe phụ nữ và trẻ em sẽ được tổ chức từ ngày 30-6 đến 1-7 tại Johannesburg (Nam Phi). Đây là diễn đàn đối thoại toàn cầu cấp cao, với sự tham dự của hơn 800 đại biểu đến từ các nơi trên thế giới, bao gồm Bộ trưởng Y tế các nước, qua các tổ chức chính phủ, các tổ chức quốc tế, cơ quan hợp tác song phương và đa phương, các nhà tài trợ, viện hàn lâm...
Diễn đàn nhằm mục đích chia sẻ các kinh nghiệm và bài học, tìm ra cách thức và con đường đi để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà thế giới sẽ phải hoàn thành vào năm 2015, bảo đảm một tương lai khỏe mạnh cho phụ nữ và trẻ em trên toàn thế giới sau năm 2015.
Tại diễn đàn này, Bộ trưởng Y tế Việt Nam Nguyễn Thị Kim Tiến được lựa chọn là một trong năm Bộ trưởng Y tế các nước có thành công nổi bật, được mời chia sẻ kinh nghiệm của quốc gia trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ liên quan đến y tế, trong đó có kinh nghiệm hợp tác đa ngành thông qua Chiến lược quốc gia và các kế hoạch hành động liên ngành về dinh dưỡng, bao gồm cả dinh dưỡng bà mẹ, trẻ em, an toàn thực phẩm, nước sạch và vệ sinh môi trường, cũng như giải quyết các thách thức trong hợp tác đa ngành và giữa các đối tác khác nhau để thực hiện hiệu quả các Chiến lược và chương trình dinh dưỡng, sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Theo bản báo cáo “Những yếu tố thành công đối với sức khỏe phụ nữ và trẻ em - những con đường tiến lên” nói trên, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc giảm tỷ lệ tử vong trẻ em dưới một tuổi, dưới năm tuổi và giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ. Việt Nam đang tiến tới thực hiện thành công Mục tiêu số 4, trong khi đã hoàn thành Mục tiêu 5a (giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ) và đạt nhiều tiến bộ tích cực để có thể hoàn thành Mục tiêu 5b trước năm 2015 (bao phủ tiếp cận toàn dân đối với sức khỏe sinh sản).
Trong vòng 10 năm qua, tỷ suất tử vong trẻ em dưới một tuổi và dưới năm tuổi đã giảm nhanh và bền vững. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới năm tuổi/10.000 trẻ đẻ sống đã giảm từ 58 phần nghìn năm 1990 xuống còn 23,2 năm 2012 và dự kiến đạt 19,3 phần nghìn vào năm 2015 theo đúng Mục tiêu thiên niên kỷ là giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới năm tuổi trong giai đoạn 1990-2015.
Trong khi đó, tỷ suất tử vong trẻ em dưới một tuổi/10.000 trẻ đẻ sống cũng giảm từ 44,4 phần nghìn năm 1990 xuống còn 15,4 năm 2012 và ước đạt 14,8 phần nghìn vào năm 2015. Bên cạnh đó, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm hơn ba lần từ 233/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 1990 xuống còn 68/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2010, song cần nỗ lực lớn để đạt được mục tiêu là 58,3/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015 theo Mục tiêu thiên niên kỷ là giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà mẹ trong giai đoạn 1990-2015.
Lộ trình đúng hướng thực hiện thành công các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam, đặc biệt là Mục tiêu số 4 và 5 của Việt Nam được lý giải bởi một loạt các chiến lược mang tính đột phá trong y tế, các phối hợp đa ngành hiệu quả và các tiến bộ về thể chế.
Trong lĩnh vực y tế, chi tiêu bình quân của Chính phủ tính theo đầu người cho y tế đã tăng hơn năm lần từ năm 1990, theo đó Việt Nam đã mở rộng được mạng lưới các cơ sở y tế và tăng cường đội ngũ cán bộ y tế. Chiến lược quan trọng về sức khỏe sinh sản cũng là một cơ chế chủ chốt nhằm tối ưu hóa các can thiệp thiết yếu, bao gồm các ca đỡ đẻ được trợ giúp bởi những người đỡ đẻ có kỹ năng, tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ mang thai và các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
Bên cạnh đó, bao phủ y tế toàn dân cũng được xác định là mục tiêu của hệ thống y tế và các chính sách đầu tư, đồng thời với việc sẵn sàng cung ứng về tài chính và ban hành kịp thời các hành lang pháp lý, cộng với việc triển khai bảo hiểm y tế và các quỹ chăm sóc sức khỏe đặc biệt hướng đến người nghèo, cũng là những nhân tố góp phần làm nên thành công của Việt Nam.
Ngoài ra, việc giảm thành công tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố quan trọng làm giảm nhanh tỷ lệ tử vong trẻ em ở Việt Nam. Việt Nam đã hoàn thành trước hạn Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 1 (giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em). Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân (cân nặng/tuổi) trên toàn quốc đã đạt mục tiêu được trước thời hạn năm 2015 ở tất cả các vùng sinh thái với các mức độ suy dinh dưỡng nhẹ, vừa và nặng. Trong đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới năm tuổi đã giảm mạnh từ 41% năm 1990 xuống còn 15,3% năm 2013, trong khi mục tiêu này cho năm 2015 là 20,5%.
Về hợp tác đa ngành, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ tích cực trong việc tăng tiếp cận nước sạch và vệ sinh. Những thay đổi này có được là nhờ các chính sách và chương trình cơ bản hướng đến các hộ nghèo, các hộ khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Các luật phổ cập giáo dục cũng góp phần cải thiện tỷ lệ đến trường, biết đọc và biết viết, trong khi việc triển khai một số chính sách và chương trình dinh dưỡng đã tạo ra môi trường thuận lợi cho việc giảm nhanh tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ em. Không những vậy, sự phát triển kinh tế cũng đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần vào thành công của Việt Nam trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ liên quan đến y tế. Ngoài ra, một yếu tố quan trọng khác là sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ tích cực của các đối tác phát triển, các cơ quan Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế.
Về thể chế và các đột phá, Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực và đạt được nhiều tiến bộ về giảm nghèo, từ 58% năm 1993 xuống còn 14,5% năm 2008 (theo báo cáo và đánh giá của Ngân hàng Thế giới).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một số thách thức, đó là sự mất cân đối trong tiếp cận dịch vụ y tế do các rào cản về địa lý và tài chính là một trong những khó khăn mà Việt Nam cần giải quyết để bảo đảm được những tiến bộ xa hơn nữa hướng tới thực hiện thành công các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tập trung giải quyết các lĩnh vực ưu tiên khác, bao gồm cải thiện chất lượng và bao phủ các can thiệp chăm sóc trẻ sơ sinh (tháng đầu sau khi sinh), cũng như tăng cường nhận thức của thanh niên về các vấn đề sức khỏe sinh sản; giảm tỷ lệ mất cân đối trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em do những rào cản về địa lý và tài chính gây ra…