Vitamin A giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ em

Cập nhật: 6/4/2015 - Lượt xem: 7136

Vitamin A, C và kẽm đều là những vi chất quan trọng giúp nâng cao miễn dịch, bảo vệ cơ thể trước bệnh tật, tăng cường sức đề kháng và chống lại các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp, tiêu chảy, hay các nhiễm virus như sởi, thủy đậu, rubella….Vitamin A: Vitamin A là loại vitamin tan trong chất béo, có tác dụng bảo vệ mắt, chống quáng gà và các bệnh khô mắt, đảm bảo sự phát triển bình thường của bộ xương, răng, bảo vệ tính toàn vẹn của tế bào biểu mô, niêm mạc, da, ngoài ra còn đóng vai trò trong tăng trưởng và tăng cường miễn dịch của cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm virus.


PGS.TS. Nguyễn Thị Lâm giám sát triển khai Ngày Vi chất dinh dưỡng năm 2014 tại tỉnh Bắc Giang

Từ năm 1988, Viện dinh dưỡng đã triển khai chương trình phòng chống thiếu vitamin A và bệnh khô mắt. Từ năm 1993, chương trình đã được triển khai trên toàn quốc. Năm 1995, Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới và Tổ chức phòng chống thiếu vitamin A quốc tế công nhận đã loại trừ bệnh khô mắt do thiếu vitamin A thể lâm sàng nhưng cho đến nay, thiếu vitamin A cận lâm sàng (vitamin A trong huyết thanh thấp) vẫn là vấn đề sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam. Nên Viện Dinh dưỡng vẫn hướng dẫn toàn quốc triển khai ngày vi chất dinh dưỡng với đẩy mạnh truyền thông giáo dục dinh dưỡng kết hợp bổ sung vitamin A liều cao định kỳ 1 năm 2 lần vào đầu tháng 6 và tháng 12 cho trẻ 6 tháng -36 tháng trên toàn quốc. Riêng vùng khó khăn, có tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao:  bổ sung vitamin A cho trẻ 6 tháng – 59 tháng tuổi..

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy thiếu vitamin A gây hậu quả khô mắt, nếu nặng có thể gây mù mắt, chậm phát triển cân nặng, chiều cao, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở trẻ em tiền học đường. Bổ sung vitamin A liều cao làm tăng tỷ lệ sống ở trẻ nhỏ tới 20-30% do làm giảm tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC)

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) đã ban hành một tuyên bố chung khuyến nghị rằng vitamin A được dùng cho tất cả trẻ em được chẩn đoán mắc bệnh sởi ở các địa phương có tình trạng thiếu vitamin A đang là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Việc bổ sung này giúp dự trữ vitamin A trong thời gian mắc bệnh sởi, kể cả ở trẻ được nuôi dưỡng tốt và có thể giúp bảo vệ mắt, chống mù lòa. Bổ sung vitamin A đã được một số nghiên cứu chứng minh làm giảm 50% trường hợp tử vong do bệnh sởi. Một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng ở các nước đang phát triển, điều trị vitamin A cho trẻ em bị mắc bệnh sởi giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn khác và tử vong. Bệnh sởi tiến triển nặng ở trẻ nhỏ có tình trạng dinh dưỡng kém, suy dinh dưỡng hoặc trẻ có hệ thống miễn dịch suy giảm, đặc biệt là thiếu vitamin A, nên bệnh nhân dễ bị biến chứng. Các nghiên cứu khác cũng đã xác nhận việc bổ sung vitamin A làm giảm mức độ nặng của các biến chứng (ví dụ tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp) ở bệnh nhân mắc bệnh sởi. Đặc biệt, bệnh sởi làm tăng nhu cầu vitamin A của cơ thể, dẫn đến thiếu vitamin A, kể cả ở những trẻ trước đó được nuôi dưỡng tốt và không thiếu vitamin A vẫn có thể gây biến chứng viêm loét giác mạc, thậm chí gây mù lòa.

Nhờ có vai trò giúp tăng cường miễn dịch của bổ sung vitamin A mà Phác đồ điều trị bệnh Sởi của Bộ Y tế ban hành trong  “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sởi” ngày 18-4-2014 chỉ rõ trẻ phát hiện mắc bệnh sởi cần được uống ngay vitamin A. Phác đồ dùng vitamin A bằng đường uống được khuyến cáo là trong 2 ngày liên tiếp kể từ khi chẩn đoán, mỗi ngày cho uống 50.000 đơn vị quốc tế cho trẻ dưới 6 tháng; 100.000 đơn vị quốc tế cho trẻ 6 - 12 tháng và 200.000 đơn vị quốc tế đối với trẻ lớn hơn. 

Đối với các bệnh nhân mắc sởi có dấu hiệu nhãn khoa mà nguyên nhân do thiếu vitamin A, ví dụ như quáng gà, vệt Bitot (vệt màu trắng đục nằm trên giác mạc mắt) hoặc khô mắt, WHO khuyến cáo liều trên được nhắc lại một lần nữa sau 4-6 tuần. 

Nguồn thực phẩm giàu vitamin A trong các bữa ăn. Thức ăn có nguồn gốc động vật có nhiều vitamin A hay retinol tốt nhất, hầu hết ở dạng retinil ester. Vì gan là nơi dự trữ vitamin A, nên gan có thành phần retinol cao nhất. Chất béo từ thịt và trứng cũng chứa một lượng vitamin A đáng kể.

Nguồn tiền vitamin A (Beta-carotene) thường là từ một số sản phẩm động vật như  sữa, kem, bơ và trứng. Các thức ăn nguồn gốc thực vật có nhiều tiền vitamin A (Beta-Caroten) như các loại củ quả có màu vàng/đỏ, các loại rau màu xanh sẫm, dầu cọ và các loại dầu ăn khác. Theo các nghiên cứu gần đây, khi vào cơ thể tiền vitamin A sẽ được chuyển thành vitamin A (theo tỷ lệ 12:1 đối với hoa quả chín và 22-24: 1 đối với rau xanh).

Bên cạnh việc bổ sung vitamin A cho trẻ nhỏ theo định kỳ 1 năm 2 lần vào đầu tháng 6 và tháng 12 hàng năm, các bà mẹ cần nâng cao sức đề kháng cơ thể của trẻ bằng cách cho trẻ ăn uống đủ chất dinh dưỡng, bổ sung hợp lý các vitamin và khoáng chất khác nữa.

Các nguyên tắc của chế độ ăn nâng cao miễn dịch trong giai đoạn mắc các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm virus như:

  • Chế độ ăn đảm bảo đủ các nhóm thực phẩm. Nhóm cung cấp chất bột đường, chất đạm gồm đủ loại cung cấp trứng; sữa; thịt cá các loại; đậu phụ và đậu đỗ; chất béo (dầu và mỡ); rau có mầu xanh thẫm, củ quả mầu vàng, và các loại rau củ khác giàu vitamin – khoáng chất thiết yếu
  • Ăn đa dạng thực phẩm : thay đổi thực phẩm thường xuyên, nên ăn 15-20 loại thực phẩm mỗi ngày
  • Thức ăn chế biến dạng lỏng, hay mềm, theo sở thích của từng trẻ.
  • Nên bổ sung các dạng siro, hay dạng cốm đa vitamin- khoáng chất khác cho trẻ em, hay viên đa vitamin khoáng chất cho người lớn giúp cho nâng cao miễn dịch, mà trong thành phần các sản phẩm dinh dưỡng này cần có các thành phần như vitamin A, E, C, kẽm, selen…, trong đó quan trọng hơn cả là vitamin A, C và kẽm.

                                                                   PGS.TS. Nguyễn Thị Lâm

                                                               Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng