Chế độ ăn đóng một vai trò quan trọng trong điều trị hạ Cholesterol máu để ngăn ngừa xơ vữa động mạch và bệnh mạch vành với những nguyên tắc sau.Giảm tổng năng lượng ăn vào trong ngày để giảm cân theo chỉ số khối cơ thể BMI nếu có thừa cân, béo phì.
• Giảm năng lượng của khẩu phần ăn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng 300Kcal so với khẩu phần ăn của bệnh nhân cho đến khi đạt được năng lượng tương ứng với mức BMI. Cần theo dõi cân nặng và BMI để điều chỉnh tổng lượng calo hàng tháng hoặc hàng quý để phòng giảm cân quá nhanh hoặc quá nhiều.
• Giảm lượng chất béo (lipid): tuỳ theo BMI chất béo chỉ nên chiếm 15-20% tổng năng lượng. Với tỷ lệ chất béo no chiếm =1/3 tổng số chất béo. 1/3 là acid béo chưa no chứa nhiều nối đôi và 1/3 còn lại là acid béo chưa no một nối đôi.Dùng dầu lạc, dầu olive, dầu đỗ tương thay cho mỡ và nên ăn các hạt có dầu như: vừng, lạc, hạt dẻ, hạt bí ngô để cung cấp acid béo không no có nhiều nối đôi omega 3, omega 6. Nếu có điều kiện nên bổ sung dầu cá thiên nhiên vì chứa nhiều acid béo không no. Loại bỏ các thức ăn nhiều acid béo no như mỡ, bơ, nước luộc thịt. Giảm lượng cholesterol ăn vào xuống dưới 250mg/ngày, bằng cách không ăn các thực phẩm có nhiều cholesterol như: óc (2500mg%), bầu dục lợn (375mg%), trứng gà toàn phần (600mg%), gan lợn (300mg%), gan gà (440mg%). Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol, nhưng lại có nhiều lecithin là một chất điều hoà chuyển hoá cholesterol trong cơ thể. Do đó, ở những người có cholesterol máu cao, không nhất thiết kiêng hẳn trứng mà chỉ nên ăn trứng 1-2 lần/tuần.
• Tăng lượng đạm (protein): Sử dụng thịt ít béo như thịt bò nạc, thịt gà nạc bỏ da, thịt lợn thăn, nên dùng cá, đậu đỗ. Nên ăn các sản phẩm được chế biến từ đậu tương: sữa đậu nành, đậu phụ, tào phớ, bột đậu tương, sữa chua đậu tương...thực phẩm làm từ đậu tương chứa nhiều estrogen thực vật và isoflavon làm giảm đáng kể nồng độ cholesterol toàn phần, cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và triglycerid. Năm 1999 cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ đã đưa ra khuyến cáo: Để giảm nguy cơ của bệnh tim mạch nên tiêu thụ ít nhất 25g đậu tương/ngày với bất cứ hình thức chế biến nào. Bớt lượng đạm giàu mỡ như thịt nửa nạc nửa mỡ, thịt chân giò...Lượng protein chiếm khoảng 12-20% tổng năng lượng, bao gồm đạm động vật và đạm thực vật.
• Hạn chế đường, mật, tối đa chỉ nên 10-20 g/ngày.
• Sử dụng ngũ cốc kết hợp với khoai củ. Nên ăn gạo lứt, hoặc giã dối để cung cấp thêm chất xơ góp phần đào thải cholesterol nội sinh ra ngoài.
• Ăn nhiều rau quả: 500g/ngày để cung cấp đủ các vitamin, chất khoáng và chất xơ. Nên sử dụng các thực phẩm giàu chất chống ôxy hoá. Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn giàu các chất chống ôxy hoá có thể giảm tới 20-40% nguy cơ bệnh mạch vành. Các thực phẩm chính chọn lựa đưa vào khẩu phần ăn nhằm chống tác dụng ôxy hoá độc hại của các gốc tự do như thức ăn giàu vitamin E: gía đỗ, dầu thực vật, dầu gấc, các sản phẩm chế biến từ gấc, thức ăn giàu beta-caroten: Cà rốt, bí đỏ, gấc, đu đủ chín, xoài, cá loại rau có màu xanh thẫm như: rau ngót, rau muống, rau giền, rau mồng tơi, rau cải soong...Thức ăn giàu vitamin C: các loại rau quả nói chung; thức ăn giàu selen: rau ngót, rau muống, rau cải bắp... Viện nghiên cứu Y học của Mỹ, Khoa dinh dưỡng và thực phẩm của Đại học khoa học quốc gia đã khuyến cáo rằng nên đảm bảo nhu cầu đề nghị cho người trưởng thành là 400mcg folat, 2,4mcg B12 và 1,4 mg B6. Một số thành phần đặc biệt của thức ăn cũng có tác dụng chống ôxy hoá như uống nước chè xanh hàng ngày có thể giảm 44-58 % nguy cơ bệnh mạch vành tim. Tác dụng có lợi cho sức khoẻ do flvonoid, một loại chất chống ôxy hoá có trong các loại chè. Flavonoid làm mất tác dụng của các gốc tự do- phân tử có hoạt tính mạnh di chuyển khắp cơ thể gây ra các phản ứng hoá học có thể huỷ hoại các tế bào, trong đó có tế bào mô tim. Bên cạnh chế độ ăn hợp lý, việc luyện tập thể dục thể thao đều đặn hàng ngày cũng là một yếu tố quan trọng có tác dụng tích cực đối với sức khoẻ.