Làm thế nào để biết mình có bị rối loạn mỡ máu không

Cập nhật: 12/6/2021 - Lượt xem: 8928

1. Xét nghiệm máu

RLMM được xác định bằng cách xét nghiệm máu

- Cholesterol toàn phần ≥ 240 mg/dL (6,2 mmol/L) là tăng cholesterol toàn phần. Ở mức 200 -230 mg/dL (5.1 -6.2 mmol/ l) là giới hạn cao cần chú ý điều chỉnh để không bị tăng cholesterol toàn phần

- HDL Cholesterol (thường được gọi là mỡ tốt) < 40 mg/dL(1,0 mmol/L) (nam giới) và < 50 mg/dL(1,3 mmol/L) (nữ giới) là giới hạn HDL cholesterol thấp. Đây là một trong các nguy cơ chính của các bệnh tim mạch.

- LDL Cholesterol (thường được gọi là mỡ xấu) >4,1 – 4,9 mmol/L là tăng LDL-cholesterol, mức >4,9 mmol/L là tăng cao.

- Triglyceride >2,2 – 5,6 mmol/L là mức tăng cao; ≥ 5,6 mmol/ L là mức tăng rất cao

2. Một số biểu hiện của rối loạn mỡ máu

Bệnh RLMM không phải là bệnh cấp tính nhưng biến chứng của bệnh RLMM lại rất nguy hiểm ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của bệnh nhân. RLMM diễn biến rất âm thầm nên nhiều người chủ quan không chú ý đến những biểu hiện lâm sàng của bệnh. Người bệnh cần đến ngay cơ sở y tế khi có những biểu hiện sau.

Dấu hiệu dễ nhận biết khi bị rối loạn mỡ máu là:

Một số triệu chứng mỡ máu cao

- Xuất hiện một số triệu chứng của tiêu hóa: Ăn uống đầy bụng, ậm ạch khó tiêu do gan, tụy bị ảnh hưởng bởi lipid máu tăng cao trong thời gian dài

- Các dấu hiệu bất thường của cơ thể: Vã mồ hôi, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt

- Xuất hiện các nốt ban vàng dưới da, không đau, không ngứa

- Các triệu chứng tim mạch:

+ Huyết áp không ổn định: người bệnh hay cảm thấy mệt mỏi, choàng váng, ăn không tiêu, khi đo thì thấy các chỉ số huyết áp không ổn định.

+ Đau thắt ngực, cảm giác đau tức, nặng ngực, cảm giác bị bóp nghẹt, đau lan ra 2 cánh tay và sau lưng.

+ Chân đau, tê bì và lạnh do cholesterol máu cao, mạch máu bị nghẽn máu không lưu thông đến các chân dẫn đến chân bị tê bìm đau nhức, các khớp chân ,mệt mỏi  và chân, bàn chân cũng dễ bị lạnh.

- Đột quỵ: Khi bị rối loạn mỡ máu, chỉ số triglyceride cao hơn mức an toàn, các mảng xơ vữa động mạch sẽ cản trở việc lưu thông máu lên não. Từ đó, não thiếu oxy, dẫn đến các cơn đột quỵ