Vai trò của vi chất dinh dưỡng với tăng cường miễn dịch và tăng trưởng cho trẻ em

Cập nhật: 5/27/2016 - Lượt xem: 12346

1. Vitamin A với tăng cường miễn dịch và tăng trưởng ở trẻ em

Vai trò của Vitamin A: Vitamin A là loại tan trong dầu, có tác dụng bảo vệ mắt, chống quáng gà và  bệnh khô mắt, đảm bảo sự phát triển bình thường của bộ xương, răng, bảo vệ niêm mạc và da, tăng cường sức đề kháng của cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.

Chức năng của Vitamin A:

  • Tham gia chức năng thị giác, sự có mặt của vitamin A là một phần không thể thiếu đối với việc đảm bảo thị giác của con người.
  • Duy trì cấu trúc bình thường của da và niêm mạc, biệt hoá tế bào, nó được coi như một hormon (hormone-like).
  • Đáp ứng miễn dịch, do hoạt động đặc hiệu lên các tế bào của cơ thể, vitamin A tham gia tích cực vào sức chống chịu bệnh tật của con người.
  • Tạo máu: Cơ chế vẫn còn chưa rõ, nhưng người ta thấy rằng thiếu vitamin A liên quan chặt chẽ với thiếu máu do thiếu sắt, có thể thiếu vitamin A đã gây cản trở hấp thụ, vận chuyển, dự trữ sắt.
  • Tăng trưởng: Retinoic acid đóng vai trò như một hormone (hormone-like) trong điều chỉnh sự lớn và phát triển của các mô trong hệ cơ -xương.
  • Chống lão hoá: Vitamin A kéo dài quá trình lão hoá do làm ngăn chặn sự phát triển của các gốc tự do.
  • Chống ung thư: hoạt động kìm hãm các gốc tự do cũng dẫn đến ngăn chặn được một số bệnh ung thư. Vitamin A trong dầu cá không có tác dụng phòng ngừa ung thư. Chỉ có thành phần tiền vitamin A trong rau củ, trái cây mới có khả năng phòng bệnh.

Ảnh hưởng của thiếu vitamin AGây bệnh khô mắt, khô giác mạc, nhuyễn giác mạc dẫn đến hậu quả sẹo giác mạc và mù vĩnh viễn; Thoái hoá, sừng hoá các tế bào biểu mô, giảm chức năng bảo vệ cơ thể; Giảm khả năng miễn dịch, tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ em; Làm cho trẻ chậm tăng cân, tăng chiều cao. Thiếu vitamin A sớm ảnh hưởng tới phát triển trí tuệ của trẻ khi đến tuổi đi học.

Nguồn thực phẩm giàu vitamin A  

Thức ăn có nguồn gốc động vật có nhiều vitamin A hay retinol tốt nhất. Vì gan là nơi dự trữ vitamin A, nên gan có thành phần retinol cao nhất. Chất béo từ thịt và trứng cũng chứa một l­ợng vitamin A đáng kể.

Nguồn tiền vitamin A - carotenoid thư­ờng là từ một số sản phẩm động vật nh­ư  sữa, kem, bơ và trứng. Các thức ăn nguồn gốc thực vật có nhiều tiền vitamin A nh­ư các loại củ quả có màu vàng/đỏ, các loại rau màu xanh sẫm, và các loại dầu ăn. Theo các nghiên cứu gần đây, khi vào cơ thể tiền vitamin A sẽ đ­ược chuyển thành vitamin A (theo tỷ lệ 12:1 đối với hoa quả chín và 22-24: 1 đối với rau xanh).

 

Nhu cầu vitamin A cần có trong khẩu phần ăn /ngày như sau:

  • Trẻ em < 6 tháng: 300mcg/ngày;
  • Trẻ 6 – 12 tháng 400 mcg/ngày
  • Trẻ 1-2 tuổi:  350-400mcg/ngày;
  • Trẻ 3-5 tuổi: 400-500mcg/ngày;
  • Trẻ 6-7 tuổi: 400-450mcg/ngày;
  • Trẻ 8-9 tuổi: 500mcg/ngày;
  • Trẻ 10-11 tuổi 600mcg/ngày; 
  • Trẻ 12-14 tuổi 700-800 mcg/ngày;
  • Trẻ 15-17 tuổi: 650-700mcg;  
  • Phụ nữ mang thai 3 tháng cuối: tăng thêm 80mcg/ngày;
  • Phụ nữ cho con bú: tăng thêm 450mcg/ngày so với lúc bình thường.

Chương trình phòng chống thiếu vitamin A ở Việt Nam

Từ năm 1988, Viện Dinh dưỡng đã triển khai chương trình phòng chống thiếu vitamin A và bệnh khô mắt. Từ năm 1993, chương trình đã được triển khai trên toàn quốc. Năm 1995, Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới và Tổ chức phòng chống thiếu vitamin A quốc tế công nhận đã loại trừ bệnh khô mắt do thiếu vitamin A thể lâm sàng nhưng cho đến nay, thiếu vitamin A cận lâm sàng vẫn là vấn đề sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam (tỷ lệ 13% ở trẻ em dưới 5 tuổi – VDD 2015). Hoạt động phòng chống thiếu vitamin A được triển khai với các cách tiếp cận khác nhau: tiếp cận dựa vào thực phẩm giàu vitamin A, Beta-caroten, bổ sung vitamin A vào thực phẩm và bổ sung vitamin A liều cao cho các đối tượng nguy cơ cao, giáo dục truyền thông về đẩy mạnh nuôi con bằng sữa mẹ, ăn bổ sung hợp lý cho trẻ, kết hợp với các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu khác như tiêm chủng mở rộng, phòng sởi, chống tiêu chảy... Tại 63 tỉnh thành phố, hoạt động của chương trình là tập trung bổ sung vitamin A liều cao cho trẻ 6-36 tháng tuổi uống theo chiến dịch vào ngày vi chất dinh dưỡng 1- 2 tháng 6 (đợt 1) và kết hợp với ngày tiêm chủng tháng 12 (đợt 2) hàng năm với liều 100.000 đơn vị cho trẻ 6 -11 tháng tuổi, 200.000 đơn vị cho trẻ 12 - 36 tháng tuổi. Chương trình còn bổ sung vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi có nguy cơ thiếu vitamin A (trẻ dưới 6 tháng không được bú mẹ, trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, tiêu chảy kéo dài, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, sởi) và bà mẹ trong tháng đầu sau sinh (để tăng cường vitamin A trong sữa mẹ). Một số tỉnh khó khăn, những vùng có tỷ lệ suy dinh dưỡng và thiếu vitamin A cao, các trẻ 36-59 tháng tuổi cũng được uống bổ sung 200.000 đơn vị vitamin A trong 6 tháng. Trong các năm qua, tỉ lệ trẻ em 6-36 tháng tuổi được bổ sung vitamin A liều cao trong các đợt chiến dịch luôn đạt tỷ lệ trên 90%.

Ngày 18/4/2014, Bộ trưởng Bộ Y tế đã có quyết định số 1327/QĐ-BYT ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sởi” trong đó uống bổ sung vitamin A được coi là điều trị hỗ trợ đối với trẻ đã mắc sởi với liều cụ thể như sau:

  • Trẻ < 6 tháng: uống 50.000 đơn vị/ ngày x 2 ngày liên tiếp
  • Trẻ 6 -12 tháng: uống 100.000 đơn vị/ ngày x 2 ngày liên tiếp
  • Trẻ > 12 tháng và người lớn: uống 200.000 đơn vị/ ngày x 2 ngày liên tiếp

Trường hợp có biểu hiện thiếu vitamin A: lặp lại liều trên sau 4-6 tuần.

2. Vai trò của kẽm với tăng cường miễn dich và tăng trưởng

Kẽm có nhiều vai trò quan trọng với tình trạng miễn dịch, và tăng trưởng của cơ thể: Kẽm giúp phát triển và duy trì hoạt động hiệu quả của hệ thống miễn dịch, cần thiết cho việc bảo vệ cơ thể trước bệnh tật, làm vết thương mau lành. Thiếu kẽm làm giảm phát triển và chức năng của hầu hết các tế bào miễn dịch, bao gồm cả tế bào T, tế bào B và đại thực bào. Trên chuột bị thiếu kẽm còn thấy thiểu sản lách, tuyến ức và giảm sản xuát các globulin miễn dịch, bao gồm cả IgA, IgM và IgG. Hiện tượng hoạt hóa đại thực bào và hiện tượng thực bào bị suy giảm cũng được nhận thấy ở cả súc vật thí nghiệm và trẻ em bị thiếu kẽm. Do đó thiếu kẽm làm tổn thương chức năng miễn dịch, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, từ đó làm giảm tăng trưởng, phát triển của trẻ, làm tăng nguy cơ bị suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ. Nghiên cứu can thiệp cho thấy việc Bổ sung kẽm cho trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi có tác dụng phục hồi rõ rệt cả về tốc độ phát triển chiều cao và cân nặng, làm tăng nồng độ hormon IGF-1. Theo nghiên cứu của Castillo – Duran, việc bổ sung kẽm cho trẻ có cân nặng sơ sinh thấp cho thấy có sự tăng trưởng tốt cả về chiều cao và cân nặng trong 6 tháng đầu đời. Một nghiên cứu tại Mỹ cho thấy bổ sung kẽm giúp làm giảm 18% trường hợp tiêu chảy, 41% trường hợp viêm phổi và làm giảm tỷ lệ tử vong trên 50%.

Kẽm cần thiết cho sự tăng trưởng của cơ thể: Kẽm tham gia vào thành phần của trên 300 enzym kim loại. Là chất xúc tác không thể thiếu được của ARN-polymerasa, có vai trò quan trọng trong quá trình nhân đối AND và tổng hợp protein. Do đó nó giúp tăng phân chia tế bào, thúc đẩy sự tăng trưởng. Do đó nếu thiếu kẽm, sự phân chia tế bào sẽ khó xảy ra nên ảnh hưởng trầm trọng tới sự tăng trưởng cả cân nặng và chiều cao. Ngoài ra, kẽm còn tham gia vào quá trình sinh tổng hợp và điều hòa chức năng của trục hormone dưới đồi như GH (Growth hormone), IGF-I là những hormone tăng trưởng và kích thích tăng trưởng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc bổ sung kẽm có hiệu quả tăng trưởng chiều cao tốt hơn ở cả trên trẻ bình thường cũng như trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi.

Bên cạnh đó kẽm còn giúp duy trì và bảo vệ các tế bào vị giác và khứu giác. Thiếu kẽm, sự chuyển hóa của các tế bào vị giác bị ảnh hưởng, gây biếng ăn do rối loạn vi giác. Trẻ em biếng ăn sẽ bị suy dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển.

Nguy cơ thiếu kẽm trong trẻ em ở các nước đang phát triển, cũng như ở Việt Nam thường do thiếu kẽm trong khẩu phần ăn. Trẻ em trong các hộ gia đình thu nhập thấp thường tiêu thụ một lượng nhỏ thức ăn nguồn gốc động vật - nguồn kẽm chủ yếu. Những thức ăn nguồn gốc thực vật có chứa kẽm với giá trị sinh học thấp, do chứa nhiều chất ức chế hấp thu kẽm. Do đó, khẩu phần ăn chủ yếu là ngũ cốc và các thực phẩm nguồn gốc thực vật và ít thịt cá, hải sản sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Hậu quả của thiếu kẽm ở trẻ nhỏ là chậm lớn, giảm sức đề kháng và tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng.

Nhu cầu của kẽm cần có trong khẩu phần ăn hàng ngày: Với mức hấp thu kẽm vừa nhu cầu kẽm ở trẻ dưới 5 tháng 2,8mg/ngày, trẻ 6-11 tháng-2 tuổi 4,1mg/ngày, ở trẻ 3-5 tuổi 4,8mg/ngày, 6-9 tuổi 5,6mg/ngày, 1-19 tuổi khoảng 7,2 đối với nữa, và 8,6mg/ngày đối với nam.

Nguồn thực phẩm cung cấp kẽm cho cơ thể: Thức ăn nhiều kẽm là tôm đồng, lươn, hàu, sò, gan lợn, sữa, thịt bò, lòng đỏ trứng, cá, đậu nành, các hạt có dầu (hạnh nhân, hạt điều, đậu phộng..). Đậu xanh nảy mầm cũng là thực phẩm giàu kẽm và dễ hấp thu. Với trẻ nhũ nhi, để có đủ kẽm, nên cố gắng cho bú mẹ vì kẽm trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn nhiều so với sữa bò. Do đó, người mẹ cần ăn nhiều thực phẩm giàu kẽm để có đủ kẽm cho cả hai mẹ con..

 

PGS.TS.Nguyễn Thị Lâm – Viện Dinh dưỡng